Sau mỗi lần đột tử, luôn để lại những thắc mắc, thậm chí thắc mắc, nghi ngờ từ người nhà bệnh nhân. Thực tế, nhiều trường hợp, nhân viên y, bác sĩ khó có câu trả lời xác đáng nếu gia đình bệnh nhân không đồng ý giám định pháp y. Những người đã ra đi, đã ra đi mãi mãi. Liệu chúng ta, những người ở lại có nên hành động vội vàng hay mọi người nên bình tĩnh đi tìm hiểu ngọn nguồn câu chuyện và nguyên nhân cái chết để có cách phòng tránh trong tương lai. Hiện nay, hiện tượng đột tử xuất hiện ngày càng nhiều và xảy ra cả ở lứa tuổi nhỏ hơn. Đây là một bài toán nan giải mà Tổ chức Y tế Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang dùng mọi biện pháp để hạn chế.
Tại Việt Nam chưa thể thống kê cụ thể về các trường hợp đột tử. Nhưng ở nhiều nước, ví dụ như ở Mỹ, người ta ước tính rằng 10% -15% trường hợp đột tử ở người dưới 45 tuổi thường là do bệnh tật nhưng có nền tim bình thường. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những nguyên nhân và cách phòng tránh, để chúng ta có thể yên tâm trước căn bệnh nguy hiểm này!
Những dấu hiệu nhận biết người bị đột tử
Đột tử là tình trạng tử vong đột ngột ngay lập tức, tuổi càng cao nguy cơ đột tử càng tăng, xảy ra ở cả nam lẫn nữ. Đột tử là ngừng tim ngay, thường không có dấu hiệu báo trước; tuy nhiên, trước đó nếu để ý kỹ người dân có thể đi khám sàng lọc khi có các dấu hiệu gợi ý trong nhóm nguy cơ cao về đột tử. Khi có các dấu hiệu như: hồi hộp, nóng ngực, tức ngực, đặc biệt trong gia đình có tiền sử người trẻ đột tử hoặc tiền sử ngất xỉu thì những người đó cần đến bệnh viện để khám, sàng lọc tim mạch.
Ví dụ như trong gia đình có người trẻ từng bị đột tử không rõ nguyên nhân hoặc trong các hoạt động gắng sức nhiều như chơi thể thao mà xảy ra ngất xỉu, mệt hoặc các rối loạn nhịp, thỉnh thoảng thấy hồi hộp quá mức trong ngực thì cần đi khám để sàng lọc được các nguyên nhân, điều trị các nguyên nhân đó và thay đổi lối sống để giảm được các nguy cơ đột tử.
Nguyên nhân dẫn tới đột tử
Nguyên nhân tim mạch
Trong các nguyên nhân về tim mạch nói cung thì do ngừng tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân chính. Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đột tử. Mỗi năm có khoảng 326.000 bệnh nhân bị ngưng tim tại Mỹ và chỉ có khoảng 10,8% sống sót. Trong đó nam giới chiềm phần lớn. Với nhồi máu cơ tim, chỉ tính tại Mỹ, cứ mỗi 43 giây lại có 1 người bị. Trong đó khoảng 1/5 các trường hợp không có triệu chứng lâm sàng. Dữ liệu y tế được tổng hợp từ hơn 190 quốc gia cho thấy. Bệnh tim vẫn là nguyên nhân gây tử vong số 1 trên toàn cầu với 17,3 triệu ca tử vong mỗi năm và dự kiến con số này sẽ tăng lên hơn 23,6 triệu vào năm 2030.
Nguyên nhân gây ngừng tim thường do bệnh cơ tim phì đại (là bệnh có yếu tố di truyền và đây là nguyên nhân hay gặp nhất). Bất thường động mạch vành, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, hội chứng Brugada… Tổn thương ngừng tim hay xảy đến với các vận động viên thể thao lúc đang thi đấu. Đó là hiện tượng một vật tác động thẳng trực tiếp. Và đột ngột vào thành ngực ngừng tim. Tổn thương gặp ở hầu hết nam giới tuổi thiếu niên, hiếm gặp với người trên 20 tuổi.
Đột quỵ não hay tai biến mạch máu não
Tai biến mạch máu não là nhóm nguyên nhân thứ hai dẫn đến cái chết đột ngột. Nhưng lại thường bị bỏ qua. Loại này có 2 dạng: Do nghẽn mạch máu não hoặc do vỡ mạch máu não. Đột quỵ não gây đột tử là những trường hợp chảy máu dưới nhện mức độ rất nặng. Chảy máu tiểu não lớn đè ép thân não, chảy máu cuống não lớn hoặc tắc động mạch thân nền. Người bệnh đột ngột đi vào hôn mê sâu rất nhanh. Có thể tử vong trong giờ đầu hoặc ngày đầu của bệnh. Còn đa phần đột quỵ não diễn biến cấp tính. Tăng dần từng nấc với thể nhồi máu não do huyết khối.
Cục máu đông làm tắc mạch phổi
Cục máu đông xuất hiện ở động mạch phổi làm tắc hệ thống mạch máu vào – ra ở phổi trong khi trao đổi khí dẫn đến cơ thể thiếu ô xy đột ngột và tử vong. Hằng năm có khoảng 60.000-100.000 người tử vong do tắc mạch phổi, trong đó đáng sợ hơn cả là có đến 25% chết bất thình lình với 2 triệu chứng thường gặp là khó thở và đau ngực.
Các cục máu sâu thường hình thành khi chúng ta không hoạt động trong thời gian dài. Kết quả là, tắc mạch phổi thường xảy đến ở những người nằm liệt giường. Vì một căn bệnh nghiêm trọng hoặc chấn thương. Hoặc những người đang hồi phục sau phẫu thuật. Nguy cơ này cũng tăng lên đối với những người ngồi lâu không vận động. Trong các chuyến bay đường dài hoặc các chuyến đi bằng ô tô.
Vỡ động mạch chủ
Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể, bao gồm 1 đoạn chạy trong ngực. Và 1 đoạn chạy trong bụng, có nhiệm vụ như dòng kênh lớn nhất giúp lưu chuyển máu đi khắp cơ thể. Vì một lý do nào đó (tuổi già, bệnh mạn tính, nhiễm trùng, cao huyết áp…). Làm thành mạch yếu đi, phình ra, gây nên phình động mạch chủ. Một trong số đó vỡ sẽ gây nên bệnh cảnh vỡ động mạch chủ. Bệnh nhân mất máu rất nhanh và ồ ạt, 90% tử vong trong tích tắc.
Ngừng thở khi ngủ
Ngưng thở khi ngủ (Obstructive Sleep Apnea – OSA) là sự rối loạn trong giấc ngủ. Trong đó có hiện tượng ngưng thở hơn 10 giây hay giảm thông khí lặp đi lặp lại nhiều lần trong đêm kèm triệu chứng ngủ ngáy và ngủ ngày quá mức. Bệnh nhân ngưng thở trong lúc ngủ thường duy trì khoảng trống đường thở. Trong khi thức nhưng biểu hiện tắc nghẽn khi đi sâu vào giấc ngủ. Giấc ngủ sâu của bệnh nhân bị gián đoạn bởi sự tắc nghẽn trầm trọng. Và kích thích tỉnh giấc để đi vào giấc ngủ nông. Sự tỉnh giấc này tái lập lại đường thở đi kèm với hít hơi dài.
Có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhất ở trung niên, thường gặp ở nam giới. Những người béo phì, bất thường cấu trúc đường hô hấp trên (amidan quá phát, hàm nhỏ, lưỡi to,…); uống nhiều rượu bia, sử dụng thuốc an thần. Hoặc trong gia đình có người bị ngưng thở khi ngủ có nguy cơ bị ngưng thở khi ngủ cao hơn.
Những phương pháp cấp cứu đối với người bị đột tử
Trên cơ sở khám sàng lọc, bác sỹ sẽ đưa ra các khuyến cáo để giảm nguy cơ đột tử. Đột tử thường xảy ra ở nhà hoặc nơi công cộng nên các phương tiện cấp cứu gần như không có. Lúc đó các phương pháp sơ cứu là quan trọng nhất. Khi bệnh nhân ngừng tim thì ép tim. Phải thực hiện hô hấp nhân tạo và gọi cấp cứu tại chỗ. Nếu bệnh nhân bị đột tử không sơ cứu tại chỗ mà đưa bệnh nhân đi đến ngay các bệnh viện. Thì khi đến nơi thời gian xử trí đã quá muộn và gần như không có kết quả.
Đối với các bệnh nhân đã có các bệnh lý, dễ dẫn đến nguy cơ đột tử cao. Thì cần tuân thủ uống thuốc theo đơn thuốc được kê uống định kỳ hàng tháng. Đối với người trẻ, giải pháp phòng tránh hiệu quả nhất là cần sàng lọc về tim mạch và mạch não. Quan trọng nhất vẫn là thay đổi lối sống, không hút thuốc lá, không lạm dụng rượu bia. Hạn chế vận động gắng sức và khám sức khỏe định kỳ để kịp thời phát hiện bệnh lý về tăng huyết áp, tiểu đường.
Đây là những bệnh thường gây nguy cơ về mạch vành. Khi khám sức khỏe định kỳ nếu phát hiện các nguy cơ về tim mạch. Thì người dân cần đến các chuyên khoa tim mạch để khảo sát sâu thêm về tim mạch. Đưa ra các chiến lược phòng ngừa các yếu tố nguy cơ cho bệnh nhân.
Cách phòng tránh bệnh đột tử
Với đột tử do ngừng tim, ngay cả ở nước Mỹ thì việc sàng lọc và kiểm soát. Những người có nguy cơ bị ngừng tim cũng vô cùng khó khăn và chưa hiệu quả. Vậy nên, dự phòng bằng cách giải quyết các yêu tố nguy cơ chính là chìa khóa của vấn đề.
Với đột quỵ tim
- Người bệnh có tiền sử đau thắt ngực, loạn nhịp tim, tăng huyết áp; đái tháo đường thì rất cần khảo sát kỹ hơn tim. Đó là điện tim, siêu âm tim và chụp hệ động mạch vành xem có xơ vữa hẹp động mạch hay không.
- Những rủi ro ngưng tim thường xảy ra với người hút thuốc lá, dùng thuốc an thần lâu dài, bệnh tăng mỡ máu, bệnh cao huyết áp và một số bệnh lý khác. Chúng ta cần kiểm soát tốt những vấn đề này.
- Caffeine và nicotine đều có thể làm tăng nhịp tim. Và làm trầm trọng thêm vấn đề rối loạn nhịp tim đã tồn tại bằng cách làm cho tim đập nhanh hơn. Ngoài ra, thuốc bất hợp pháp như cocaine, amphetamines. Và các chất kích thích khác có thể gây rối loạn nhịp tim ngay cả ở những trái tim khỏe mạnh.
- Tiền sử gia đình có người thân độ 1 (cha mẹ, con cái, anh chị em). Từng bị ngừng tim hoặc tai biến mạch não cũng rất vô cùng quan trọng. Vậy nên nếu ai có yếu tố liên quan này, cần tìm đến bác sỹ chuyên khoa tim mạch.
Với đột quỵ não não
Nên khảo sát trước hệ động mạch não, động mạch chủ xem có bị phình mạch, phình bóc tách hay hẹp mạch hay không.
- Kiểm soát huyết áp, tiểu đường, không thuốc lá và hạn chế uống rượu, bia.
- Điều trị tốt bệnh lý tim như rung nhĩ, suy tim, bệnh mạch vành và chủ động khảo sát mạch máu não.
- Hạn chế lạm dụng thuốc ngừa thai, thuốc điều chỉnh hoc môn sinh dục, thuốc giảm đau không kê đơn (Naproxen, Ibuprofen…), tránh lối ăn nhiều dầu mỡ chiên rán và những thức ăn nhanh.
- Người chơi thể thao hoặc trong cuộc sống hằng ngày thỉnh thoảng có đau ngực trái, tức ngực, hồi hộp đánh trống ngực, xỉu… Và tất cả người trên 65 tuổi nên chủ động đi khám tim mạch hàng năm.
- Thể thao đều đặn cũng là 1 yếu tố vô cùng quan trọng, giúp trái tim và thành mạch. Thêm dẻo dai, đàn hồi, đồng thời làm giảm lượng mỡ máu. Mảng cholesterol thừa bám trong thành mạch.
- Cần lưu ý với những người đã từng có tiền sử chấn thương ngực – bụng; nhiễm trùng, phẫu thuật tim, lịch sử gia đình và di truyền… Vì đây là những đối tượng có nguy cơ cao bị phồng lóc và vỡ động mạch chủ.
Với thuyên tắc mạch phổi
- Phẫu thuật: Các phẫu thuật vùng bụng, xương chậu, thay khớp gối, khớp háng và gãy xương lớn như xương đùi… Luôn có nguy cơ cao của thuyên tắc mạch phổi, đột tử. Người thầy thuốc cần thực hành dự phòng huyết khối trong phác đồ điều trị.
- Lưu ý với bệnh nhân ung thư: Một số bệnh ung thư có tác dụng làm quánh máu làm tăng nguy cơ hình thành máu cục lang thang trong lòng mạch. Điều này đặc biệt đúng đối với ung thư vùng chậu – bụng ở giai đoạn u tiến triển.
- Lưu ý với phụ nữ mang thai và sinh con: Có nguy cơ thuyên tắc phổi cao hơn cả trong và ngay sau khi sinh con, đặc biệt đối với những người sinh mổ.
- Lưu ý với bệnh nhân nằm lâu sau mổ gãy xương, sau chấn thương cột sống liệt tay chân… Những người này luôn có nguy cơ cao tắc mạch phổi.
- Thuốc tránh thai, liệu pháp hormone, hút thuốc lá, người trên 70 tuổi, béo phì hoặc lịch sử tắc mạch phổi… Cũng có nguy cơ cao bị tắc mạch phổi hơn những người khác.
Nguồn: Benhvienhuulung.vn